Phỏng vấn ông Jonas Hagemann, Cố vấn kỹ thuật dự án Lưới Điện Thông Minh cho Năng Lượng Tái tạo và Hiệu quả Năng lượng GIZ về vấn đề hệ thống truyền tải quá tải:
Là một bên tham gia hỗ trợ Bộ Công thương Việt Nam trong lĩnh vực điện, GIZ có nhận định gì về tình trạng quá tải lưới điện và giải pháp cho tình trạng này?
Những số liệu mới đây từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho thấy các nhà máy điện mặt trời được xây dựng với tốc độ khá nhanh, từng công suất điện nội lực của các nhà máy điện mặt trời tăng từ 150 MWp lên 4.460 MWp. Trong khi đó, việc xây mới cơ sở hạ tầng để phân phối và truyền tải điện thường tốn nhiều thời gian hơn.
Tuy nhiên, vấn đề tắc nghẽn xuất hiện tại những khu vực tập trung nhiều nhà máy sản xuất điện trong khi lượng điện tiêu thụ và công suất truyền tải đều thấp. Các dự án điện mặt trời đều nội lực không được phân bổ đều trên khắp VN. Một số “điểm nóng” như tỉnh Ninh Thuận hoặc Bình Thuận có nhiều dự án điện mặt trời. Sự tắc nghẽn cơ sở lưới điện hầu hết xảy ra từ những vùng này.
VN vẫn có nhiều tiềm năng cho các nhà máy điện gió và điện mặt trời hòa lưới điện tại các địa phương khác. Đó là lý do vì sao dự thảo hiện tại cho quy định mới về giá điện mặt trời hòa lưới của Bộ Công thương bao gồm các khu vực khác nhau, nhằm phân bổ công suất lắp đặt điện mặt trời trên phạm vi toàn quốc, không chỉ tập trung vào 2 hay 3 tỉnh thành.
Một cách khác nhằm giảm tắc nghẽn truyền tải là lắp đặt nguồn điện mặt trời gần phụ tải điện. Bằng cách này, điện mặt trời không bị ảnh hưởng nhiều bởi hệ thống truyền tải và phân phối điện.
Năng lượng tái tạo có hạn chế là công suất không ổn định, gây rủi ro lớn về nguồn và cần có nguồn dự phòng để đảm bảo an toàn lưới điện. Kinh nghiệm nào từ phía Đức có thể áp dụng ở VN?
Năm 2018, ở Đức, hơn 40% sản lượng điện được sản xuất là từ các nguồn năng lượng tái tạo, hầu hết là năng lượng gió, mặt trời và sinh khối. Những 40% này chỉ là con số bình quân tính cho cả năm. Do tính chất của thời tiết, sản lượng điện do các nhà máy điện gió và điện mặt trời sản xuất ra thường không ổn định. Có những thời điểm nguồn năng lượng tái tạo sản xuất ra hơn 100% sản lượng điện của hệ thống (vào buổi trưa) nhưng hai ngày sau, sản lượng đó chỉ còn là 15% (vào ban đêm).
Tuy nhiên, giống như chúng ta có dự báo thời tiết cho ngày mai, việc sản xuất điện gió và điện mặt trời cũng có thể đoán được. Các cơ quan vận hành hệ thống truyền tải điện (TSO) ở Đức đang sử dụng thông tin dự báo ngắn hạn chính xác về năng lượng gió và mặt trời để quản lý hệ thống điện. Phương pháp dự báo điện gió và mặt trời tiên tiến nhất có thể dự đoán sản lượng điện của ngày mai (ngày tới), với độ chính xác cao, hơn 95%. Với dữ liệu này, TSO có thể lập lịch vận hành sản lượng điện phát của các nhà máy điện khác (ví dụ, nhà máy nhiệt điện) vào ngày kế tiếp. Các cơ quan vận hành hệ thống điện của VN hiện cũng đang phát triển các hệ thống dự báo năng lượng điện như vậy.
Nhiều ý kiến trong nước đề nghị Chính phủ cần “mở cửa” để tư nhân tham gia đầu tư giống như xây dựng thị trường phát điện cạnh tranh hiện nay, ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
Về mặt pháp lý, việc xây dựng và vận hành đường dây truyền tải mới sẽ chỉ thuộc quyền của EVN và các công ty con (như EVNNPT hoặc các công ty điện lực khác). Tuy nhiên, các đơn vị này đang hoạt động với nguồn tài chính hạn chế do giá điện thấp, nợ đọng kéo dài và vốn chủ sở hữu thấp.
Nguồn vốn từ tư nhân đầu tư vào hệ thống truyền tải/phân phối điện có vẻ là một giải pháp khả thi nhưng để thực hiện được, khung pháp lý hiện tại cần phải được thay đổi phù hợp. Lấy ví dụ: so với việc đầu tư vào nhà máy điện, doanh thu của đường dây truyền tải không đến từ việc bán điện trên thị trường mà từ việc thu một khoản phí cho việc sử dụng công suất truyền tải (giá truyền tải điện).
Tại Việt Nam, giá truyền tải là một khoản thu duy nhất cố định để có thể truyền tải điện đến bất kỳ điểm nào trong hệ thống truyền tải khu vực. Nói một cách đơn giản, “giá truyền tải điện hàng năm sẽ được áp dụng đồng nhất trên toàn quốc, không phân biệt khoảng cách địa điểm truyền tải và phân phối”. Do đó, khoảng cách truyền tải, tốc độ truyền lỗi điện và các chi phí khác cần thiết cho việc vận hành hệ thống truyền tải sẽ không được tính đến. Với cơ chế này, giá truyền tải cho khoảng cách 50m và 50km sẽ giống nhau mặc dù chi phí đầu tư sẽ cao hơn nhiều.
Vì vậy, nên khuyến khích tăng cường môi trường đầu tư của EVN và các công ty con đối với cơ sở hạ tầng truyền tải điện. Có thể là thông qua việc nâng cao giá truyền tải, tạo ra khung pháp lý rõ ràng và hiệu quả hơn.
GIZ đang hỗ trợ Việt Nam xây dựng “Lưới điện thông minh cho năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng”, có thể việc này sẽ như thế nào?
Lưới điện thông minh có ý tưởng cơ bản là áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào toàn bộ hệ thống điện (hay “mạng điện”) nhằm cho phép dữ liệu được trao đổi qua lại trong mọi hoạt động của hệ thống điện: từ quá trình phát điện, truyền tải điện đến tiêu thụ điện.
Các công nghệ của Lưới điện thông minh tăng cường năng lực quản lý thông minh đối với hoạt động phát và tiêu thụ điện thông qua việc tự động giám sát các nhà máy điện, việc nguồn lưu trữ điện và các phản ứng điện linh hoạt. Điều này cũng cho phép các nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng gió hoặc mặt trời, được hòa lẫn với quy mô lớn vào lưới điện quốc gia.